TPP là gì ?
TPP viết tắt của cụm từ Trans – Pacific Strategic Economic Partnership Agreement trong tiếng Anh, tức là Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương. Tuy nhiên nó thường được biết đến với tên gọi ngắn gọn và phổ biến hơn là Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (Trans – Pacific Partnership), ngoài ra TPP còn có thể được gọi với các tên gọi khác như Hiệp định Đối tác Kinh tế xuyên Thái Bình Dương hay Hiệp định Thương mại Tự do xuyên Thái Bình Dương.
TPP – Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương được xem là hiệp định đánh dấu sự hợp tác sâu rộng và trở thành bước ngoặt của thương mại tự do trong thế kỷ 21.
TPP được xem là hiệp định đầy tham vọng và mang tính chất bước ngoặt của thế kỷ 21, đặc biệt là đối với các quốc gia thành viên bởi nó hướng tới một thỏa thuận thương mại tự do với sự hội nhập sâu rộng của các nền kinh tế thuộc khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Đây không chỉ đơn thuần là một hiệp định thương mại thúc đẩy và mở rộng thị trường quốc tế đối với các nước thành viên mà còn đặt ra các quy tắc thương mại mang tiêu chuẩn cao hơn giúp xử lý và giải quyết các vấn đề đối với kinh tế toàn cầu trong giai đoạn hiện nay.
TPP có bao nhiêu thành viên ?
Hiệp định TPP hiện nay có sự tham gia của 12 nước thành viên là Mỹ, Nhật Bản, Australia, Canada, Singapore, Mexico, Brunei, New Zealand, Malaysia, Chile, Peru và Việt Nam. Đáng chú ý, các quốc gia này đều là thành viên của APEC với tổng dân số lên đến hơn 800 triệu người đồng thời chiếm 40% GDP toàn cầu và 26% kim ngạch thương mại trên toàn thế giới. Ngoài ra, một số nước khác trong khu vực đang bày tỏ sự quan tâm và muốn gia nhập hiệp định này trong thời gian sắp tới như Hàn Quốc, Thái Lan, Đài Loan, Indonesia, Costa Rica, Philippines hay Colombia.
Hiệp định TPP bao gồm 12 quốc gia thành viên thuộc khu vực châu Á – Thái Bình Dương, trong đó có Việt Nam.
Tuy nhiên, Trung Quốc với vai trò là nền kinh tế lớn thứ hai, quốc gia xuất khẩu lớn nhất trên thế giới, thành viên của APEC và có vị thế khá đặc biệt trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương dù từng thể hiện ý định muốn tham gia TPP nhưng các điều khoản hiện nay của hiệp định lại dường như cố tình khiến cho nước này không thể có cơ hội tham gia vào thỏa thuận thương mại tự do này. Vậy lý do Trung Quốc gặp khó khăn khi tham gia TPP là gì, nhiều học giả cho rằng Mỹ với vai trò đi đầu và chủ chốt trong TPP đang muốn biến hiệp định này trở thành một điểm chốt mới của họ tại châu Á cùng với chiến lược hướng Đông, xoay trục về châu Á – Thái Bình Dương đồng thời sử dụng nó để tạo một nền kinh tế hợp nhất, thúc đẩy sự phát triển chung và đặc biệt là trực tiếp đối trọng lại sự phát triển quá nhanh của Trung Quốc. Mặc dù vậy sớm muộn Trung Quốc và nhiều quốc gia khác như Nga có thể tham gia TPP khi mà làn sóng thương mại tự do ngày càng phát triển.
Lịch sử hình thành TPP như thế nào ?
Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương trước khi đạt được thỏa thuận then chốt tại Atlanta từng trải qua rất nhiều các cột mốc đáng nhớ đánh dấu lịch sử hình thành và phát triển của một trong các hiệp định thương mại tự do tham vọng nhất từ trước đến nay.
- Sự kiện đầu tiên được coi là khởi nguồn cho sự hình thành của TPP, đó là bên lề Hội nghị cấp cao APEC tổ chức tại thành phố Los Cabos, Mexico vào tháng 10/2002, nguyên thủ của 3 quốc gia là Thủ tướng Singapore Goh Chok Tong, Tổng thống Chile Ricardo Lagos và Thủ tướng New Zealand Helen Clark thảo luận một hiệp định mang tên Hiệp định Đối tác Kinh tế Ba bên Thái Bình Dương (Pacific Three Closer Economic Partnership – CEP) hay còn gọi là Hiệp định P3.
- Tháng 4/2015, Brunei xin gia nhập với tư cách thành viên sáng lập trước khi vòng đàm phán thứ 5 (vòng đàm phán cuối cùng) kết thúc đồng thời hiệp định P3 được đổi thành Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (Trans – Pacific Strategic Economic Partnership – TPP) hay còn được biết đến là hiệp định P4. Thỏa thuận ban đầu được 4 nước này ký vào ngày 03/06/2015 và có hiệu lực vào ngày 28/05/2006. Theo thỏa thuận, các bên trong P4 tiếp tục đàm phán và ký kết 2 văn kiện quan trọng liên quan đến dịch vụ tài chính và đầu tư, chậm nhất là 2 năm kể từ khi P4 chính thức có hiệu lực, tức tháng 5/2008. Đồng thời thể hiện mong muốn mở rộng P4 và sử dụng hiệp định này như một công cụ để thực hiện ý tưởng về Khu vực Mậu dịch Tự do châu Á – Thái Bình Dương của khối các nước tham gia APEC (FTAAP).
Lịch sử hình thành của TPP được bắt đầu với sự mở rộng các quốc gia thành viên cùng với đó là các vòng đàm phán để đạt được thống nhất và thỏa thuận chung.
- Tháng 09/2008, Mỹ tuyên bố tham gia TPP tuy nhiên mục tiêu của nước này là cùng các nước đàm phán một hiệu định thương mại tự do hoàn toàn mới dựa trên nền tảng Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương trước đó.
- Tháng 11/2008, Australia và Peru tham gia TPP tại Hội nghị APEC được tổ chức tại Peru nâng tổng số thành viên lên con số 7. Hai nước này khẳng định thúc đẩy và cố gắng đàm phán để thiết lập một khuôn khổ hoạt động mới cho hiệp định này. Từ đó, các vòng đàm phán được lên lịch và duy trì cho đến khi TPP chính thức được ký kết.
- Năm 2010, Malaysia bày tỏ mong muốn tham gia TPP và đến tháng 09/2010, Malaysia được đồng ý trở thành thành viên của hiệp định này.
- Đầu năm 2009, Việt Nam quyết định tham gia hiệp định TPP với tư cách thành viên liên kết và đến tháng 10 tại Hội nghị thượng đỉnh APEC được tổ chức tại Yokohama ( Nhật Bản), Việt Nam chính thức tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương. Tuy nhiên đến ngày 13/11/2010, Việt Nam mới tuyên bố tham gia vào TPP với tư cách thành viên đầy đủ. Như vậy, đến cuối năm 2010, tổng số thành viên của TPP được nâng lên 9 thành viên sau khi Việt Nam và Malaysia chính thức trở thành thành viên mới của hiệp định này.
- Tháng 06/2012, Mexico và Canada lần lượt nhận lời mời tham gia hiệp định TPP và bắt đầu chính thức tham gia đàm phán từ vòng đàm phán thứ 13 tại Auckland (New Zealand).
- Tháng 07/2013, Nhật Bản tham gia đàm phán Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương và trở thành thành viên thứ 12 của hiệp định này.
- Kể từ tháng 03/2010 khi đàm phán TPP chính thức khởi động tại Melbourne, Australia sau các cuộc họp ở nhiều cấp khác nhau, 12 nước thành viên trải qua 19 phiên đàm phán chính và nhiều phiên không chính thức. Tuy nhiên tiến trình đàm phán gặp phải bế tắc nhiều lần do các nước thành viên chưa tìm được tiếng nói chung trong nhiều vấn đề như bảo trợ hàng hóa nội địa, giảm thuế xuất nhập khẩu,…
- Ngày 05/10/2015, tại Atlanta, Bộ trưởng của 12 nước thành viên tham gia hiệp định TPP chính thức thông báo hoàn thành các thỏa thuận liên quan đến hiệp định này và tuyên bố kết thúc quá trình đàm phán. Đây là một bước ngoặt lớn đánh dấu sự phát triển của một mô hình mới về hợp tác kinh tế khu vực và hứa hẹn trở thành hạt nhân để hình thành một Khu vực Mậu dịch tự do cho châu Á – Thái Bình Dương trong tương lai.
Nội dung chính của TPP là gì ?
Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) bao gồm 5 đặc điểm chính và 30 chương với các lộ trình cam kết đi kèm, trong đó 5 chương trực tiếp liên quan đến vấn đề trao đổi hàng hóa và dịch vụ, các chương còn lại là vấn đề tiêu chuẩn và quy định về dịch vụ tài chính, đầu tư, môi trường, chất lượng lao động, thương mại điện tử, chính sách cạnh tranh, giải quyết tranh chấp, biện pháp phòng vệ thương mại, thương mại dịch vụ xuyên biên giới, doanh nghiệp nhà nước...
Nội dung của TPP không chỉ dừng lại ở các vấn đề liên quan đến thương mại mà còn hết sức toàn diện với nhiều vấn đề phi thương mại hướng tới sự phát triển hợp tác sâu rộng và lâu dài.
Các thỏa thuận trong TPP tập trung đến việc các quốc gia thành viên tiếp cận thị trường một cách sâu rộng và toàn diện dựa trện việc cắt giảm thuế quan và các hàng rào phi thuế quan. Cụ thể khi hiệp định TPP được chính thức ký kết, các nước thành viên phải đưa thuế xuất nhập khẩu nhiều mặt hàng về bằng 0% đồng thời tiến tới xóa bỏ mọi rào cản trong giao thương hàng hóa và dịch vụ. Tham vọng của TPP là thiết lập được các chuẩn mực cao và toàn diện cho sự hợp tác của các quốc gia thành viên, chính vì vậy nó gần như bao phủ toàn bộ mọi hoạt động của nền kinh tế.
Nội dung tiếp theo của TPP là gì, đó là hiệp định này giải quyết các thách thức đối với các vấn đề liên quan đến thương mại và đảm bảo các nền kinh tế các nước thành viên ở tất cả các cấp độ phát triển và mọi quy mô doanh nghiệp đều có thể tận dụng và hưởng đầy đủ các lợi ích mà hiệp định TPP mang lại. Hiệp định này hướng tới sự thay đổi một cách toàn diện không chỉ đối với kinh tế mà còn liên quan đến môi trường, đạo đức kinh doanh và văn hóa. Trong đó, TPP thống nhất nhiều luật lệ, quy tắc chung được áp dụng đối với các quốc gia thành viên như chất lượng sản phẩm, sở hữu trí tuệ, vấn đề lao động, bảo vệ môi trường của các quốc gia thành viên phải được quy định và giám sát theo một tiêu chuẩn chung. Ngoài ra, nó còn tạo điều kiện phát triển thuận lợi cho sản xuất và các dây chuyền cung ứng cùng với đó là các chế tài và sự hoàn thiện của hệ thống phát luật các nước. Nhiều điều luật được quy định trong TPP có ảnh hưởng gián tiếp đến sự thay đổi chế độ pháp lý và quy định trong luật của các quốc gia, chính vì vậy mà các quốc gia thành viên phải điều chỉnh và hoàn chỉnh hệ thống luật phát của mình.
Tuy nhiên, Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương quy định các quốc gia thành viên đều phải ký một thỏa thuận trong đó cam kết đảm bảo bí mật về quá trình thương lượng và chi tiết các điều luật xây dựng trong hiệp định này. Điều này tức là các thông tin được bảo mật một cách nghiêm ngặt và không công khai cho công dân mà chỉ được tiết lộ đến với các tổ chức, cá nhân hay cơ quan chính phủ có liên quan trực tiếp đến việc tư vấn chính sách giao dịch.
Có thể nói với các nội dung sâu rộng không chỉ dừng lại ở tự do thương mại, hiệp định TPP tạo ra một nền tảng hội nhập toàn diện đối với các quốc gia thành viên trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Đồng thời nó đánh dấu sự phát triển mới các quy tắc thương mại trong thế kỷ 21 với các tiêu chuẩn cao về giao thương, đầu tư và nhiều vấn đề khác tương tác trong hệ thống kinh tế của các quốc gia.
Điểm khác biệt của hiệp định TPP là gì ?
Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương có một số điểm khác biệt so với một số hiệp định kinh tế và hiệp định tự do thương mại khác trên thế giới hiện nay, trong đó nổi bật có 4 vấn đề chính.
- Thứ nhất, TPP được xây dựng với mục tiêu cơ bản là cắt giảm hoặc xóa bỏ hoàn toàn các loại thuế và rào cản thương mại cho hàng hóa, dịch vụ xuất nhập khẩu đối với các quốc gia thành viên đồng thời tăng cường trao đổi kinh tế và hợp tác đầu tư. Điểm nổi bật của TPP là nó không chỉ hướng tới thương mại tự do về hàng hóa mà còn có cả các dịch vụ, có thể kể đến như dịch vụ y tế hay giáo dục trong khu vực các nước thành viên. Đồng thời, thời gian thực hiện các thỏa thuận và lộ trình cắt giảm hoặc xóa bỏ thuế quan và rào cản thương mại ngắn hơn so với các hiệp định thương mại tự do (FTA) trước đây.
- So với các hiệp định kinh tế và thương mại khác thì TPP vượt trội hơn bởi nó không chỉ tập trung vào các vấn đề liên quan trực tiếp đến trao đổi thương mại, kinh tế mà còn hướng đến các vấn đề phi thương mại khác như tăng cường bảo vệ môi trường, an toàn lao động, quyền lợi người tiêu dùng hay bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Các điều luật và nội dung liên quan được đồng hóa và áp dụng nghiêm ngặt đối với tất cả các quốc gia thành viên. Chính vì vậy mà nó được coi là có tầm nhìn rộng hơn và hướng tới sự phát triển lâu dài.
- Sự khác biệt tiếp theo của TPP là gì, đó chính là nó cho phép các tập đoàn, công ty quốc tế và doanh nghiệp nước ngoài có khả năng đưa chính phủ của các quốc gia thành viên ra tòa án đặc biệt của TPP khi các quốc gia này đặt ra các chính sách, luật lệ vi phạm điều luật của TPP. Đồng thời các quốc gia này có thể phải đền bù hoặc bồi thường các thiệt hại xảy ra theo quy định của tòa án đặc biệt, thậm chí mất đi cơ hội hợp tác với các tập đoàn hay công ty khác.
- Cuối cùng, các thông tin của TPP về quá trình thương lượng và chi tiết các điều luật được bảo mật một cách nghiêm ngặt và không được công khai, điều này tương đối khác biệt so với các thỏa thuận hay hiệp định hợp tác kinh tế và thương mại trước đây.
TPP mang lại lợi ích gì cho Việt Nam ?
TPP là một trong các hiệp định mang tính chất toàn diện dựa trên cơ sở cân bằng lợi ích và trình độ phát triển khác nhau của các nước tham gia hiệp định đồng thời mang đến rất nhiều cơ hội cho các nước thành viên thúc đẩy sự tăng trưởng của thương mại, tạo thêm nhiều việc làm, nâng cao chất lượng cuộc sống, năng suất lao động, hệ thống quản trị, giảm đói nghèo đồng thời cải thiện các tiêu chuẩn về môi trường, lao động và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Có thể nói, với tính sâu rộng của mình, TPP được đánh giá là có tác động lớn hơn cả so với việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2007. Mặc dù được đánh giá là tổ chức kinh tế lớn nhất trên thế giới tuy nhiên với 161 thành viên, mô hình này mất nhiều thời gian và khó khăn hơn trong việc đạt được các thỏa thuận và sự đồng thuận chung mang tính chất hệ thống. Trong khi đó là một hiệp định thương mại và đối tác kinh tế đầy mới mẻ và đột phá, TPP tỏ ra ưu việt hơn so với WTO và các hình thức hợp tác khác hiện nay bởi nó thiết lập được sự đồng thuận với phạm vi can thiệp sâu hơn liên quan đến rất nhiều vấn đề đối với các quốc gia thành viên, trong đó có Việt Nam như chính sách đầu tư, chất lượng sản phẩm, kiểm soát các công ty nhà nước, bảo vệ môi trường,…
Lợi ích mà TPP mang lại cho Việt Nam là rất lớn bởi Việt Nam được đánh giá là nước hưởng lợi nhiều nhất khi TPP chính thức được ký kết. Theo Viện Kinh tế Quốc tế Peterson (PIIE), Việt Nam có cơ hội gia tăng thu nhập và giá trị xuất khẩu mạnh nhất trong 12 quốc gia thành viên của TPP với 13,6% và 31,7%. Trong khi đó, Ngân hàng Thế giới (WB) thì cho rằng Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương có thể góp phần làm tăng 8% GDP của Việt Nam, 12% lượng vốn quốc gia và 17% kim ngạch xuất khẩu thực tế trong thời gian 20 năm tới. Erasia Group thì nhận định TPP có thể đẩy xuất khẩu của Việt Nam tăng thêm 28%, GDP tăng 11% trong năm 2025 khi các công ty nước ngoài thâm nhập thị trường bởi giá nhân công rẻ. Còn nghiêm cứu dự báo tác động của hiệp định TPP tới Việt Nam của Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách thì khi tham gia TPP, Việt Nam có cơ hội nhiều nhất trong số 12 quốc gia thành viên hiện tại với GDP có thể tăng từ 1,03% đến 2,11% tương đương với 1,4 tỷ USD đến 2,9 tỷ USD dựa trên hoạt động đầu tư và tiêu dùng. Trong khi đó, kim ngạch xuất khẩu có thể tăng tới 37%, thu nhập bình quân đầu người tăng 13% cho đến năm 2015. Vậy thực sự cơ hội khi Việt Nam tham gia TPP là gì ?
- Thứ nhất, TPP giúp Việt Nam cân bằng được quan hệ thương mại đối với các thị trường trên thế giới, điều này hạn chế được sự phụ thuộc quá mức vào một thị trường nhất định. Hiện nay thị trường Đông Á như ASEAN, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc, Hồng Kông đang chiếm tỷ trọng trong kim ngạch xuất nhập khẩu của nước ta, trong đó xuất khẩu luôn ở trên mức 60%, nhập khẩu lên tới 75%. Tuy nhiên, nếu thị trường Đông Á gặp biến động hoặc có các tác động bất lợi thì có thể xảy ra rất nhiều rủi ro với nền kinh tế. Việc tham gia hiệp định TPP giúp đa dạng hơn các thị trường mục tiêu đồng thời hạn chế việc phụ thuộc và sự mất cân đối trong tình trạng xuất nhập khẩu hiện nay.
- Thứ hai, dù ký kết các Hiệp định Thương mại Tự do (Free Trade Agreement - FTA) với 7 đối tác như Australia, Singapore, Brunei, Malaysia, Australia, Chile, Nhật Bản hay New Zealand tuy nhiên việc cắt giảm hoặc xóa bỏ hoàn toàn các loại thuế và rào cản thương mại thông qua TPP được xem là cú hích thực sự cho hoạt động xuất khẩu của Việt Nam, đặc biệt là đối với các thị trường lớn và nhiều tiềm năng phát triển như Mỹ, Nhật Bản, Australia hay Canada. Theo số liệu năm 2014, tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam với các nước trong TPP là 89 tỷ USD, trong đó 57 tỷ USD thuộc về hoạt động xuất khẩu, chiếm tới gần 40% tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam. Việc tham gia vào TTP đem đến cơ hội cho Việt Nam thúc đẩy sản xuất và đầu tư, trong đó các ngành được hưởng lợi nhiều nhất đó chính là mặt hàng chủ lực như dệt may, giày dép, thủy hải sản, điện tử, nông sản nhiệt đới bởi mức thuế thấp hoặc xóa bỏ hoàn toàn 0% ngay khi TPP được ký kết, điều này giúp mở rộng thị phần và nâng cao năng lực cạnh tranh của các mặt hàng này tại thị trường của các nước thành viên TPP, đặc biệt là các thị trường lớn như Mỹ.
TPP mang đến rất nhiều cơ hội cho Việt Nam trong việc thúc đẩy xuất khẩu, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, cải thiện hệ thống pháp luật, cơ cấu lại các nguồn lực và nâng cao chất lượng cuộc sống.
- Tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI) thông qua việc cải thiện môi trường đầu tư và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Điều này giúp mở ra cơ hội hợp tác của Việt Nam với các công ty, tập đoàn lớn của các quốc gia thành viên trong TPP, từ đó thúc đẩy một làn sóng đầu tư mới, cải thiện năng lực sản xuất, tạo thêm nhiều công ăn việc làm, tận dụng các cơ hội xuất khẩu và nâng cao năng lực cạnh tranh, quá trình chuyển giao công nghệ.
- Lợi ích tiếp theo của
TPP là gì, đó chính là hiệp định này giúp cho các quốc gia thành viên, trong đó có Việt Nam phân bổ và cơ cấu lại nguồn lực một cách hiệu quả hơn đồng thời thúc đẩy việc đổi mới mô hình tăng trưởng và phát triển kinh tế. Không chỉ có vậy với các nội dung cam kết sâu rộng, TPP mang đến khả năng hoàn thiện thể chế và hệ thống pháp luật, đẩy mạnh cải cách hành chính hướng tới một môi trường thuận lợi, cạnh tranh bình đẳng và minh bạch hóa hơn. Ngoài ra, TPP còn thúc đẩy kiểm soát các vấn đề liên quan đến bảo vệ môi trường, chất lượng sản phẩm, quyền lợi và an toàn lao động…
- Cuối cùng, Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương giúp cho người tiêu dùng trong nước có cơ hội tiếp cận và sử dụng các sản phẩm, dịch vụ chất lượng cao với giá thành rẻ hơn, đồng thời đảm bảo vệ sinh an toàn hơn với các mặt hàng thực phẩm bởi các quy định tiêu chuẩn được áp dụng cho các nước thành viên TPP. Đồng thời giá lao động của Việt Nam được tăng lên để xóa dần khoảng cách với các nước phát triển khác trong TPP, cải thiện quyền lợi của người lao động.
Thách thức khi tham gia TPP của Việt Nam là gì ?
Hiệp định TPP mang lại rất nhiều lợi ích đối với nền kinh tế và sự phát triển của Việt Nam, tuy nhiên đi cùng với đó là một số thách thức đặt ra, vậy thách thức của TPP là gì đối với Việt Nam ?
- Đầu tiên đó chính là sự cạnh tranh đến từ các quốc gia thành viên trong TPP, trong đó đặc biệt là đối với các mặt hàng thực phẩm, nông sản như thịt lợn, thịt gà, thịt bò, đậu tương, đường, rượu và hóa phẩm tiêu dùng hay sản phẩm công nghiệp như ô tô, máy móc thiết bị bởi sản phẩm cùng loại nhưng chất lượng cao hơn và giá thành cạnh tranh hơn. Điều này có thể khiến cho các doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh yếu bị lấn lướt ngay tại thị trường nội địa, thậm chí phá sản gây nên tình trạng thất nghiệp đối với người lao động.
- Tham gia hiệp định TPP đặt Việt Nam trước thách thức về yêu cầu phải xây dựng khuôn khổ pháp lý phù hợp với định hướng của các thỏa thuận liên quan đến hiệp định này đồng thời hoàn thiện hệ thống luật pháp trong nước, cải cách thể chế kinh tế. Chính vì vậy mà rất nhiều quy đinh pháp luật phải điều chỉnh và sửa đổi cho phù hợp, đặc biệt là hệ thống pháp luật liên quan đến thương mại và đầu tư.
Tham gia hiệp định TPP, Việt Nam phải đối mặt với các thách thức đòi hỏi phải giải quyết tốt để hạn chế tác động tiêu cực và tận dụng đầy đủ các lợi ích mà TPP mang lại.
- Nhiều ngành nghề chịu tác động trực tiếp của các điều khoản quy định nghiêm ngặt về nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm, trong đó có ngành dệt may bởi hoạt động xuất khẩu của nước ta phụ thuộc khá nhiều vào việc nhập khẩu nguyên liệu và hàng hóa trung gian. Chính vì vậy mà nhiều loại hàng xuất khẩu hiện tại có thể không đáp ứng được các quy định này từ hiệp định TPP, đòi hỏi phải tái cơ cấu và tìm ra hướng đi mới.
- Do có các điều khoản liên quan đến sở hữu trí tuệ, nên các doanh nghiệp và người dân phải mất tiền nhiều hơn để mua bản quyền các sản phẩm trí tuệ trong đó có thuốc và các chế phẩm từ thuốc, phần mềm, các ấn phẩm giải trí truyền hình, công nghệ số bản quyền hay các ứng dụng công nghệ. Trong khi vấn đề bản quyền và sở hữu trí tuệ tại Việt Nam còn rất nhiều tồn đọng cần giải quyết.
Trên đây là các vấn đề liên quan đến
TPP là gì, lịch sử hình thành và các tác động của TPP đối với nền kinh tế Việt Nam, hi vọng có thể giúp bạn hiểu hơn về hiệp định mang tính chất bước ngoặt về thương mại trong thế kỷ 21.